Với gần 30 năm xây dựng và phát triển Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, GS Trần Phương đã kiên định theo đuổi triết lý “trường đại học không vì mục đích lợi nhuận” – một mô hình tiên phong được nhiều nhà khoa học, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đánh giá cao, coi là điển hình đáng nghiên cứu cho giáo dục đại học ngoài công lập Việt Nam.

Mô hình được lãnh đạo cấp cao ghi nhận
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, với quy mô người học thuộc loại lớn nhất trong các trường ngoài công lập, đã trở thành hình mẫu điển hình cho mô hình đại học tư thục phi lợi nhuận do GS Trần Phương – người sáng lập, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Hiệu trưởng – xây dựng.
Năm 2016, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khi đến thăm trường đã đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan liên quan nghiên cứu mô hình này, với những đặc điểm nổi bật như: người góp vốn chỉ được chia lãi bằng tỷ suất tiền lãi gửi ngân hàng, mỗi cổ đông một phiếu biểu quyết bất kể vốn góp, và lợi nhuận được dùng để lập quỹ tích lũy thuộc sở hữu tập thể.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2011) và Phó Bí thư thường trực Thành ủy Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng (2016) cũng từng khích lệ mô hình hoạt động hiệu quả của trường.
GS Trần Hồng Quân, Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, nhận xét đây là mô hình mới, khác biệt về sở hữu, lợi ích, lộ trình phát triển và cơ chế làm chủ, mang tính điển hình đáng nghiên cứu. Ông Nguyễn Công Tạn, nguyên Phó Thủ tướng, đánh giá trường đã trở thành “ngọn cờ cho các trường đại học ngoài công lập”.
Bốn đặc trưng cơ bản của mô hình
Mô hình GS Trần Phương xây dựng có bốn đặc trưng nổi bật:
Thứ nhất, trường có chủ rõ ràng: tập thể các cổ đông là chủ của trường.
Thứ hai, tồn tại hai hình thức sở hữu song song: sở hữu cá nhân của từng cổ đông về số vốn đã góp (có quyền hưởng lợi tức, rút và chuyển nhượng vốn), và sở hữu tập thể về quỹ tích lũy tập trung không chia – cơ sở vật chất cho sự trường tồn của trường.
Thứ ba, hoạt động phi lợi nhuận: người góp vốn không được chia lợi nhuận, chỉ hưởng lợi tức bằng lãi suất tiết kiệm ngân hàng (từ 2013 theo Luật Giáo dục là bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ).
Thứ tư, bình đẳng trong quyền biểu quyết: mọi cổ đông đều có một phiếu, không phân biệt vốn góp nhiều hay ít.
Hai nội dung về lợi tức cổ phần và quỹ tích lũy của mô hình này hoàn toàn phù hợp với Khoản 7, Điều 4 của Luật Giáo dục đại học 2012.
Xã hội hóa giáo dục gắn với thực tiễn
GS Trần Phương luôn khẳng định tuy là trường dân lập nhưng hoạt động theo hình thức tư thục. Ông kêu gọi góp vốn cổ phần nhưng kiên quyết không đánh đồng trường với doanh nghiệp, dù thừa nhận giáo dục là một loại hình dịch vụ.
Quy chế của trường ghi rõ chỉ có cán bộ, nhân viên, giảng viên cơ hữu, giảng viên thỉnh giảng và cộng tác viên có đóng góp xây dựng trường mới được làm cổ đông. Giấy chứng nhận cổ phần không được tự do chuyển nhượng mà phải qua chấp nhận của Hội đồng Quản trị.
Trường dựa vào “những khoản vốn góp nhỏ bé” của đội ngũ trí thức nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục nhưng không có nhiều tiền, đồng thời nhiều lần từ chối các khoản vốn góp lớn của nhà đầu tư.
GS Trần Phương coi vốn góp như tiền vay và trường có trách nhiệm trả lãi. Trước 2013, trường trả lãi hàng tháng theo tỷ lệ tiết kiệm trung bình của bốn ngân hàng lớn (khoảng 1,2%/tháng). Khi lạm phát đạt 30%, trường còn bảo đảm giá trị gốc, khiến có cổ đông góp 500 triệu đồng ban đầu sau 20 năm tăng lên 2.260 triệu đồng.
Kiên định mục tiêu phi lợi nhuận
GS Trần Phương không cho rằng dịch vụ giáo dục không sinh lợi, nhưng ông khẳng định việc đầu tư kinh doanh giáo dục để kiếm lời là sai lầm, vì lĩnh vực này không thể tạo ra lợi nhuận cao như nhiều ngành khác.
Điểm mấu chốt trong quan điểm của ông là phần chênh lệch thu chi không chia cho cổ đông mà dùng cho bốn mục tiêu: nâng cao chất lượng đào tạo, cải thiện điều kiện học tập cho sinh viên, cải thiện điều kiện làm việc và thù lao cho giảng viên-cán bộ-nhân viên, và hình thành quỹ phát triển trường.
Học phí của trường là minh chứng: khi mới thành lập tương đương 400 USD/năm (cao so với các trường khác lúc đó), nhưng những năm sau tăng rất chậm. Trước mỗi lần tăng học phí, trường căn cứ vào mức lạm phát và khảo sát mức học phí các trường bạn. Có lần dự kiến tăng lên 10 triệu đồng/năm nhưng GS Trần Phương chỉ chấp nhận 9,6 triệu đồng với lý do phần lớn sinh viên xuất thân từ gia đình nông dân còn nhiều khó khăn.
Đảm bảo tính có chủ của trường
Phê phán tính vô chủ trong quản lý nhiều doanh nghiệp nhà nước, GS Trần Phương quyết tâm không để trường của mình vô chủ. Dù không còn nhu cầu kêu gọi góp vốn, trường vẫn khuyến khích người lao động mới, nhất là giảng viên, nhà khoa học, nhà quản lý trẻ đóng cổ phần, vì chính họ sẽ là chủ tương lai, bảo đảm sự phát triển trường tồn.
Chủ nhân thực sự của trường là tập thể cổ đông với quyền sở hữu về tài sản đóng góp và tài sản tạo ra, không ai có thể tước bỏ. GS Trần Phương nhấn mạnh: “Có ý kiến cho rằng quỹ tích lũy không chia là tài sản xã hội. Không đúng. Không có xã hội nào tạo ra nó cả. Nó do hoạt động của tập thể các cổ đông tạo ra”.
Ông đưa ra giả thiết: khi trường giải thể, quỹ tập trung sẽ dùng để trang trải nợ, giải quyết quyền lợi người học và cán bộ, thanh toán chi phí, hoàn trả vốn góp, và nếu còn dư sẽ chia cho cổ đông theo tỷ lệ vốn góp.
Theo TS. Đỗ Chí Nhân